Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2018

Đạo đức- Y đức

Trong mỗi con người đều có sẵn Đạo đức- Y Đức, cũng như trong cuộc sống cần trau dồi, học tập, rèn luyện để có Đạo đức- Y đức.
Có 3 loại Y đức
1. Y đức với chính bản thân mình
Đây là tinh thần, thái độ trách nhiệm của chính bản thân mỗi con người, yêu thương, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của chính bản thân mình. Quan tâm chăm sóc bản thân mình vừa là bản năng, là trách nhiệm với chính mình cũng như góp phần nâng cao sức khỏe cho con cháu, cho cộng động. Mỗi người khỏe mạnh sẽ làm cho cộng động khỏe mạnh. Mỗi người bị ốm yếu, bệnh tật làm cho cộng đồng yếu đi, "một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ", bản thân mình đau ốm cũng làm ảnh hưởng đến người thân và cộng đồng. Vì vậy Y đức với chính bản thân mình cần được nhận thức đúng, trau dồi học tập thường xuyên để giúp cho mình khỏe mạnh. Thiếu trách nhiệm, thiếu Y đức với bản thân cũng là thiếu trách nhiệm, thiếu Y đức với cộng đồng.

2. Y đức với cộng đồng với đồng loại.
Giúp đỡ, cứu chữa cho đồng loại là một bản năng của sinh vật đặc biệt là với con người. Trong mỗi con người vừa có sẵn Y đức cộng đồng, đồng thời phải nhận thức, học tập và tu dưỡng rèn luyện để Y đức cộng đồng ngày càng phát huy tác dụng. Giúp đỡ cộng đồng, người khó khăn, yếu đuối bệnh tật là trách nhiệm của tất cả chúng ta.
Đặc biệt, Y đức cộng động còn được thể hiện bằng tinh thần trách nhiệm của mỗi công dân trong việc không làm bất cứ việc gì ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của cộng đồng, đồng loại. Không làm mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường, không sản xuất, chế biến các thực phẩm nhiễm bẩn, chứa hóa chất độc hại, không buôn bán kinh doanh các mặt hàng thực phẩm giả, không có nguồn gốc.  Trong sản xuất lương thực, thực phẩm... không dùng các chất độc hại cho sức khỏe con người và môi trường có thể trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến tính mạng của người thân, cộng đồng, nhân loại.
Trong sản xuất kinh doanh, lao động Y đức cộng đồng còn được thể hiện việc chú trọng bảo vệ môi trường sống, an toàn vệ sinh lao động, an toàn và chất lượng sản phẩm. Xây một ngôi nhà, làm cái cầu, đắp một con đê... vững chắc, chất lượng, an toàn cũng là thể Y đức cộng đồng tốt và ngược lại.
Xây dựng  môi trường sống cho bản thân, gia đình, tập thể, cộng đồng... xanh sạch đẹp, làm thêm những việc có ích, thiết thực trong các lĩnh chăm sóc sức khỏe cộng đồng... cũng thể hiện người có Y đức cộng đồng tốt.
Mỗi người cần có ý thức trách nhiệm để làm cho các cơ sở y tế ngày  càng phát triển, nền Y học của đất nước ngày càng hiện đại, văn minh. Đặc biệt Y đức cộng đồng cần được coi là trách nhiệm hàng đầu của các nhà quản lý, doanh nhân, các nhà lãnh đạo, các nhà chính trị.
Thiếu Y đức cộng đồng có thể làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạnh, của cộng đồng, giống nòi, gia đình và chính bản thân mình.

3. Y đức của người Thầy thuốc
Người Thầy thuốc cũng là con người trong cộng đồng và xã hội, vì vậy để có được Y đức của Thầy thuốc, đạo đức của riêng người thầy thuốc thì trước hết cần phải có Đạo đức Y đức với chính bản thân mình cần rèn luyện học tập cho mình khỏe mạnh, có Y đức cộng đồng để có trách nhiệm chung với sức khỏe và tính mạng của đồng loại.
Đồng thời với trách nhiệm và quyền hạn của người thầy thuốc đó là trực tiếp chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân nên cần nâng cao nhận thức về Y đức, học tập trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, tinh thần thái độ phục vụ. Với kiến thức của mênh mông của nhân loại về chăm sóc bảo vệ sức khỏe... người Thầy thuốc phải suốt đời học tập, tu dưỡng về mọi mặt, mới có thể đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi ngày càng tăng của cộng đồng, xã hội và đất nước trong việc khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Tóm lại, để đảm bảo cho sức khỏe, tính mạng của Nhân Dân, mỗi người chúng ta cần có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi trong việc nhận thức, học tập, tu dưỡng rèn luyện Đạo đức Y đức, làm cho Đạo đức, Y đức của mỗi người, của cộng động, xã hội, của các Thầy thuốc ngày càng phát triển, sức khỏe của mỗi người, của cộng đồng, nhân loại càng được nâng cao. An toàn, Khỏe mạnh, An khang, Thịnh vượng, Hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà có sự đóng góp quyết định của Đạo đức- Y đức.
"VINH AN NHIÊN"

https://youtu.be/gVuJh_InCj8
TNP

Hạnh Phúc

Muốn đón em về trong căn phòng sạch sẽ
Rất giản đơn không bề bộn tâm hồn
Ô cửa sổ hướng đông với bông hồng nhỏ
Thơm mát dịu dàng

Không phải trái tim vàng
Ta thuộc về nhau
Quá khứ hiện tai tương lai
Rối tung khi thiếu em

Muốn được cùng em trong bình dị
Căn phòng nhỏ khoảng trời nho nhỏ
Thơm xanh nồng nàn giai điệu
Hạnh phúc trong mỗi ban mai.

TNP

Giản dị

Muốn sống thật hơn
Muốn yêu cuồng nhiệt
Muốn giàu xứng đáng
Muốn chết thật êm

Muốn đời yêu ta
Như ta yêu đời
Muốn tình nhân loại
Chan hòa bao la...!

TNP
Cốt là khoe "Bon sai"

Mong manh


Giá mùa thu không xanh
Để ta đừng vời vợi
Giá ta không ngóng đợi
Chắc gì thu mong manh...?

T&Photo: TNP

Ban mai

Muốn cùng em ban mai dịu ngọt
rực nắng vàng
tươi mát
bình yên

Chút cô đơn
mong manh lãng mạn
lặng lẽ
bên người bình dị thần tiên.

TNP

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2018

Ta vẫn sống lắt lay

ỡ trái đất không còn quay nữa
Thế giới chỉ còn đêm đen
Ngỡ tim có thể vỡ tung
Thành từng mảnh bay vào Vũ trụ

Không... ánh sáng đã về
Trái đất vẫn quay
Máu vẫn chảy
Tim ta còn đập...!

Ta vẫn sống lắt lay giữa Vũ trụ này.

TNP

Thứ Hai, 17 tháng 9, 2018

Rừng em...!

Cơn bão không thổi về từ phía biển
Từ thản nhiên của những cánh rừng
Không đổ lá và hoa không cuồng phong gào thét
Xé nát lòng ai lặng lẽ môi cười.

TNP

Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2018

Yêu em...!

Muốn tặng em nụ hôn của gió
Gờn gợn sóng tràn
Muốn tặng em nụ hôn của rừng
Rì rào bát ngát
Muốn tặng em nụ hôn của cát
Hát vũ khúc thần tiên
Muốn tặng em nụ hôn cuồng điên
Mùa Thu vời vợi.

T&Photo: TNP


Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2018

Sóng em...!


Em có nghe mùa thu
Tan chảy xanh nỗi nhớ
Giữa giao thoa vũ trụ
Dội tình em sóng từ.

TNP

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2018

Tiếng địa phương

Nói những người đọc, nói tiếng địa phương, vùng miền "ngọng"... là thiếu tôn trọng bản sắc văn hóa...!

Một số người nói "tiếng Việt khác tiếng Anh là viết sao đọc vậy", là không chính xác.
Tiếng Việt ta quá nhiều từ viết khác, đọc khác tùy theo vùng miền, ví dụ:
- Ở Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc viết TRỜI nhưng đọc là CHỜI, viết SUNG SƯỚNG đọc XUNG XƯỚNG, viết TRÔI SÔNG đọc CHÔI XÔNG, viết TRỜI TRONG XANH đọc CHỜI CHONG XANH...
- Một số vùng Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng viết LỢN đọc NỢN, viết NÓNG đọc LÓNG, viết LÓNG LÁNH đọc NÓNG NÁNH...
- Hà Tĩnh viết Cửa đọc Cựa, viết HÀ TĨNH đọc HÀ TỊNH, viết KẺ GỖ đọc KẸ GỘ...
- Quảng Bình đến Huế viết ĐẾN đọc ĐẾNG, viết CỒN CÁT đọc CỒNG CÁT, viết XUNG KÍCH đọc XUNG KÍT, viết ĐÁNH ĐỊCH đọc ĐẮNH ĐỊT...
- Đà Nẵng viết ĐÀ NẴNG đọc ĐÀ NẺNG
- Quảng Nam viết XE ĐẠP đọc XE ĐỘP, QUẢNG NAM đọc GOẢNG NÔM...
- Dân Nam Bộ viết CON GÀ đọc CONG GÀ, viết ANH ĐI ĐÂU VỀ VẬY đọc ĂNG ĐI ĐÂU ZỀ  ZẬY, viết TRĂNG TRÒN đọc TRĂNG TRÒNG...
Rất nhiều từ "viết một đường đọc một nẻo" nhưng chúng ta vẫn hiểu được, đặc biệt người cùng vùng miền họ càng dễ hiểu.
Như vậy có thể nói, ngôn ngữ, tiếng nói là văn hóa đặc trưng vùng miền, đó là bản sắc vùng miền. Trách nhiệm của chúng ta là làm sao cho mọi người vẫn nói như vậy, theo đúng bản sắc văn hóa của họ, mà mọi người hiểu được, chứ không phải buộc họ phải sửa, thậm chí áp đặt, nói họ "nói ngọng" để diễu cợt, hoặc bắt họ phải sửa.
Tốt nhất ở Nước ta có tiếng phổ thông, tiếng nhiều người biết, dễ hiểu, vì thường xuyên nói trên TV, Đài phát thanh..., mọi người khi cần, nói tiếng phổ thông để dễ hiểu nhau hơn, riêng tiếng địa phương, vùng miền, càng nhiều càng thể hiện sự phong phú, đa dạng của ngôn ngữ, văn hóa... nên cần được tôn trọng, gìn giữ, bảo tồn và phát triển.
Một số người hy vọng có một cách dạy chữ mới để "Viết thế nào, đọc đúng thế đó" cho mọi vùng miền, là chưa hiểu sâu sắc văn hóa và bản sắc phong phú của ngôn ngữ, giọng nói vùng miền, còn duy ý chí.

TNP
Photo: "Đêm Chăng" TNP

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2018

Sướng nhất trên đời là...!

"Làm điều tốt, hốt được tiền"

TNP


Thứ Hai, 3 tháng 9, 2018

Đánh vần hay bỏ đánh vần...?

Để nhớ 1 chữ, phải nhớ 6 chữ, để đọc 1 chữ phải đọc 6 chữ, tại sao không đọc luôn...?
Ví dụ: để đọc 1 chữ LOẠN trẻ phải đọc 6 chữ
LOẠN = "OAN – LỜ OAN LOAN NẶNG LOẠN".

Nên nhớ ông cha ta ngày xưa viết tiếng Việt bằng chữ Nôm, viết và đọc luôn không đánh vần, ông cha ta vẫn hiểu và dạy trong một từ nhiều khi là ghép từ nhiều từ, nhưng đọc thì vẫn đọc luôn.

Cả Thế Giới học tiếng Anh có đánh vần không?. Người ta cũng có phát âm, cũng có vần, để hiểu nhưng không đọc theo lối "đánh vần".
WHAT, WHO, WHY......?
Học đọc như thế nào, có đánh vần không...?

Chúng ta cần dạy cho trẻ học các chữ cái, dấu, các vần và trên cơ sở đó các em sẽ hiểu,  nhớ, tưởng tượng để đọc, để viết... chứ không phải là đọc đánh vần dài "tràng dang đại hải".
Ví dụ: chữ TRANH
Chúng ta trước đó vẫn dạy 5 chữ cái là T, R, A, N, H, tiếp đó chúng ta vẫn dạy vần TR do hai chữ T và R ghép lại, vần ANH do ba chữ ghép lại. Nên phân tích cho các em hiểu chữ TRANH do hai vần TR và ANH ghép lại và từ đó hình thành chữ TRANH.
Sự sáng tạo của chữ Quốc Ngữ là tìm được các chữ cái, tìm ra các vần, cách phát âm, tìm ra các quy luật để dễ hiểu, dễ học, dễ đọc, dễ nhớ, dễ viết...
Nhưng không vì vậy mà chúng ta mãi áp dụng cả quy trình sáng tạo đó để bắt các em phải đọc chữ TRANH = ANH TRỜ ANH TRANH.
Các em hiểu như vậy, nhưng các em cần được đọc luôn đó là TRANH. Hiểu và Đọc nên được nhìn nhận và tôn trọng như một quy trình "ĐỌC HIỂU".

- Ủng hộ dạy trẻ chữ cái, học các vần, để hiểu, để dễ nhớ, dễ viết... nhưng đọc không cần "đánh vần" dài dòng.
- Phản đối GS Hồ Ngọc Đại thay đổi cách đánh vần.
TNP

*** Chính vì tiếng Việt dễ đọc như đã bàn kỳ trước nên tôi cho việc dạy đánh vần, kiểu “bê a ba huyền bà” hay “bờ a ba huyền bà” vốn thường thấy ở Việt Nam là hoàn toàn không cần thiết.
Lý do:

Nó trái tự nhiên: Trẻ em, khi học ngôn ngữ, bắt đầu học bằng từ chứ không phải bằng âm vị. Đứa bé, độ bảy tám tháng, bắt đầu bập bẹ những chữ như “ba” hay “má”. Việc học từ cũng nên bắt đầu như vậy .

Nó phức tạp hóa vấn đề. Riêng chuyện đánh vần như thế nào cũng là một vấn đề. Trước, người ta đánh vần bằng tên chữ, kiểu: bê, xê, dê...; sau, bằng âm: bờ, cờ, dờ... Trước, người ta đánh vần lần lượt từ trước đến sau, kiểu: lờ o lo a loa nơ loan nặng loạn; sau, người ta đánh vần phần vần trước rồi ráp với phần phụ âm đầu rồi thêm dấu (Ví dụ, chữ loạn: oan, lờ oan loan nặng loạn). Ở hải ngoại hiện nay, tại các trung tâm Việt ngữ chủ trương dạy đánh vần, hầu như mỗi nơi dạy một cách. Ngay chính giáo viên cũng lúng túng. Như vậy, câu hỏi cần được đặt ra là: Tại sao người ta bắt trẻ em phải học những thứ mà chính người lớn cũng thấy khó?

Nó vô ích: Xin trở lại với chữ “loạn” nêu trong ví dụ ở trên. Học sinh đánh vần: OAN – LỜ OAN LOAN NẶNG LOẠN. Qua ví dụ này, chúng ta thấy rõ một điều: Học sinh đã có thể đ được vần “oạn” trước khi thực sự đánh vần. Như vậy thì tập đánh vần làm gì nữa? Để ráp với phụ âm đầu ư? Nhưng nếu vậy thì có cần phải bỏ quá nhiều thì giờ để bắt các em học đánh vần không?

Nó bộc lộ một số sự bất toàn trong chữ viết tiếng Việt. Với người lớn, đặc biệt các nhà nghiên cứu, hiểu những sự bất toàn ấy cũng là điều hay; tuy nhiên, với trẻ em, chúng chỉ gây nên bối rối và hoang mang vô ích. Xin nêu vài ví dụ:

o G/GI: Khi học các phụ âm và nguyên âm, học sinh đọc “g” là “gờ” và “i” là “i”, nhưng khi đánh vần chữ “gì”, đáng lẽ phải là “gờ i ghi huyền ghì” thì chúng ta lại bắt các em đánh vần theo kiểu “zờ i zi huyền zì”. Âm “gờ” tự nhiên lại biến thành “zờ”. Vấn đề càng rắc rối hơn khi đánh vần hai chữ "giặt gịa" (đọc như dịa) và "giạ lúa" đọc như dạ): Cũng một chữ "g" mà có đến hai cách phát âm khác nhau. Như vậy, nó là hai hay một? Nếu là một thì làm sao giải thích hiện tượng mâu thuẫn vừa nêu? Nếu là hai thì tại sao trong bảng chữ cái dạy các em lại không có “gi”?

Q: Về phương diện ngữ âm, “q”, cũng như “c” và “k” đều đọc là /k/, giống nhau. Nhưng trong khi cách đánh vần những chữ bắt đầu bằng “c” và “k” không có vấn đề gì; cách đánh vần các chữ bắt đầu bằng “q” lại gây rắc rối không ít. Ví dụ, chữ “quốc” có ba cách đánh vần: quờ-ốc-quốc, quờ-uốc-quốc và q(cu)-uôc-quốc.[1] Đó là chưa kể cách đánh vần đúng âm vị học hơn: kờ-uốc.

o A/Ă: Trong ngữ âm học, “ă” chỉ là âm “a” ngắn. Trên phương diện chính tả, tất cả những chữ “a” đứng trước chữ “y”, thật ra, là “ă”. Ví dụ, ở Việt Nam, người ta dạy trẻ em đánh vần chữ “mai” và “may” như sau:

MAI: a – i - ai > mờ - ai - mai

MAY: ă – i - ay > mờ - ay - may[2]

o Â/Ơ: Hiện tượng tương tự cũng xảy ra với “ơ” và “â” (thật ra chỉ là “ơ” ngắn): Đánh vần chữ “Tây”, chẳng hạn, học sinh sẽ đọc:

Ớ - i – ây > tờ - ây - tây* Nó lạc hậu: Hầu như trong các ngôn ngữ lớn ở Tây phương hiện nay, không có nơi nào dạy trẻ em đánh vần như ở Việt Nam. Không phải họ không biết.
Ngay từ xưa người Hy Lạp và La Mã cũng đã từng dạy theo phương pháp đánh vần xuôi rồi đánh vần ngược như vậy. Từ đầu thế kỷ 16, phương pháp này được truyền bá sang châu Âu. Năm 1527, Valentin Ickelsamer, một nhà giáo người Đức, biên soạn một cuốn nhan đề là Cách dạy đọc nhanh nhất (The Shortest Way to Reading), trong đó, phương pháp học vần được sử dụng để dạy đọc. Phương pháp này có ảnh hưởng rất lớn ở Anh, sau đó, từ cuối thế kỷ 18, cả ở Mỹ. Ở cả hai nơi, nó chiếm địa vị thống trị trong việc dạy học ít nhất cho đến thế kỷ 19, lúc một số nhà giáo dục bắt đầu lên tiếng hoài nghi hiệu quả của nó.

Từ đầu thế kỷ 20, một phương pháp dạy đọc mới ra đời, gọi là phương pháp đọc toàn chữ (whole-word reading method) hoặc nhìn-và-nói (look-and-say): Theo phương pháp này, học sinh đọc và cố gắng ghi nhớ cả chữ thay vì phân tích từng âm theo kiểu đánh vần ngày trước. Từ đó đến nay, phương pháp dạy đọc ở Mỹ thay đổi rất nhiều và rất nhanh, kéo theo sự thay đổi trên rất nhiều nơi trên thế giới.
Tuy nhiên, dù thay đổi đến mấy, cũng không có ai đề nghị quay lại kiểu dạy đọc theo lối học vần như ở Việt Nam. Dù người ta vẫn đề cao việc dạy các âm vị và khuôn vần (gọi là “phonics method”).

Không những trái tự nhiên, phức tạp, vô ích, tự mâu thuẫn và lạc hậu, việc dạy đánh vần, theo tôi, còn phản sư phạm.

Thứ nhất, tôi không tin cách tập đọc bằng biện pháp đánh vần là hiệu quả hơn những cách khác. Tuy nhiên, để khẳng định được điều này, cần có những cuộc thử nghiệm và kiểm nghiệm cụ thể, ví dụ, tìm hai lớp có những điều kiện và trình độ giống nhau, thử dạy tập đọc theo hai phương pháp khác nhau, sau đó, làm bài kiểm tra để có thể đánh giá chính xác hiệu quả của từng phương pháp. Trong khi chưa có những cuộc thử nghiệm và kiểm nghiệm như vậy, chúng ta chưa có quyền khẳng định biện pháp nào là tối ưu, kể cả phương pháp dạy đánh vần.

Thứ hai, ngay cả khi biện pháp dạy đọc theo lối đánh vần có hiệu quả nhanh hơn một chút, những ảnh hưởng tai hại do nó gây ra, theo tôi, cũng rất lớn. Tai hại đầu tiên là nó khiến học sinh chán học, hoặc ít nhất, không thấy thú vị gì trong việc quác miệng ra gào to những âm thanh hoàn toàn vô nghĩa như “mờ-a-ma-i-gờ-rét-may-sắc-máy” (máy) “Vờ-i-vi-ê-viê-tờ-viêt-nặng-Việt » (Việt). Tai hại thứ hai là nó làm học sinh trở thành thụ động, và do đó, mất hẳn tính sáng tạo. Các em được thầy cô giáo dẫn dắt từng li từng tí. Từng vần. Từng phụ âm đầu. Từng thanh điệu. Và từng chữ. Việc dẫn dắt cẩn thận, chu đáo, chi li đến độ trí óc của các em không cần và cũng không thể làm bất cứ việc gì khác. Trừ việc nhớ.

Trước khi phân tích tính chất phản sư phạm ấy, xin thử nhớ lại hình ảnh các lớp mẫu giáo của chúng ta thời thơ ấu. Có phải chúng như tình huống 1" dưới đây không?

Tình huống 1:

Cô giáo viết lên bảng chữ "Bà" rồi đọc:

"À-bờ a ba huyền bà"

Học sinh đọc theo:

“À - bờ a ba huyền bà"

Cô giáo viết chữ "nội" rồi đọc:

“Ội - nờ ôi nôi nặng nội"

Học sinh đọc theo:

“Ội - nờ ôi nôi nặng nội"

Cứ thế, kéo dài từ chữ này đến chữ khác. Lâu lâu cô giáo lại hỏi:

“Chữ ‘bà’ đánh vần sao, các em?”

Học sinh lại gào lên:

“À-bờ a ba huyền bà"

Cứ thế, từ giờ này sang giờ khác. Cho đến lúc các em tập đánh vần hết các chữ quy định trong sách giáo khoa.

Nhớ lại, thấy đáng sợ chứ?

Nguyễn Hưng Quốc
***

Gió và Cát


Ngày xửa ngày xưa, trong cõi thần tiên, Cát được sinh ra, trắng ngần, dịu dàng, dễ thương. Nàng Cát  đã lớn lên trong tình yêu của mẹ Đất, nàng thật ngây thơ, thông minh, đoan Trang và tấm lòng nàng bao dung trải rộng trên khắp nhân gian, cuộc sống của nàng thật êm đềm biết bao.
Rồi một hôm như là định mệnh, không! thật ngẫu nhiên! Gió đến. Chàng đến không phải để gặp Cát, chàng đến vì Gió là con của bố Trời nên đi lang thang, lang thang.. trong thế gian, để làm mát cho những ai gió muốn, đôi khi Gió gây gỗ... Thế gian thật là nhiều chuyện, vì vậy dù Cát rất xinh đẹp và dễ thương thi Gió vấn chưa có đủ thời gian để có thể cảm nhận hết được tấm lòng bao dung của Cát.
Thời gian trôi đi Gió vẫn đi hoài, vẫn lang thang như Gió đã lang thang.. rồi Gió chợt nhận ra dù đi bốn phương trời hình như bên mình luôn luôn có Cát, Cát lúc ẩn lúc hiện, lúc vô tình Cát rơi vào mắt Gió, một giọt nước mắt rơi rồi tất cả lại trở nên bình yên vì chỉ là vô tình thôi mà. Đi lang thang hoài rồi cũng có lúc mệt nhoài Gió sằm sõng xoài, lúc đầu Gió không nhận ra nhưng sau nhiều lần Gió nhận ra bên mình luôn luôn có Cát, Cát thật êm đềm, ôm ấp, bao dung, và gió cũng khẽ khàng, dịu êm từ lúc nào không hay để không làm Cát đau. Làn da cũng như Trái tim của Cát và Gió đều thật là “nhạy cảm”. Thời gian cứ trôi qua Gió bỗng phát hiện mình không thể thiếu Cát để hát lời của Đất, và hình như Cát cũng cảm nhận được điều đó và cũng không thể thiếu Gió để hát lời của Đất.
Nhưng cuộc đời là vậy! có niềm hạnh phúc nào không có khổ đau. Nếu sinh ra, Gió không đi lang thang để đến giờ Gió chỉ có mình cát thôi? Nếu Cát không dịu êm trước đó để đến nay chỉ dịu êm với riêng Gió? thì đâu có câu chuyện hôm nay. Bởi vậy mỗi lần bên nhau, yêu nhau, mỗi khi sung sướng trào dâng là mỗi lần nỗi sóng đớn đau. Nước mắt của Gió thành mưa, nước mắt của Cát thành mạch nước, những giọt nước mắt ôm chầm lấy nhau, quyện chặt trong nhau, hoá thành khe suối, hoà thành dòng sông cuộn chảy, thành biển rộng bao la.
 Thế đấy “Biển là nước mắt tình yêu của Gió và Cát”.

TNP
Ảnh minh họa: Internet

Tình Anh (Ca khúc mới)



Tình anh như gió ru êm bờ cát
Tình anh như nắng lóng lánh tóc mai
Tình anh hoang vắng chờ em trên cánh đồng thôn giã hoàng hồn

Em yêu...
Tình anh như gió khẽ hát ru em
Tình anh năm tháng chứa chan niềm yêu
Tình anh suối vắng chờ em róc rách có bao giờ ngừng

Em yêu...
Có bao giờ... dễ nói lời yêu
Có bao giờ... ngừng thổi gió ơi
Có bao giờ... hát thôi cũng hiểu
Có bao giờ.... có bao giờ...
Em mãi bên anh...!

Tình anh như suối êm trôi về mau
Tình anh như sóng vỗ cánh chân trời
Tình anh lặng lẽ chờ em suốt một đời mong ngóng trùng khơi

Em yêu...
Tình anh say đắm hát khúc tình ca
Ngàn năm bên sóng hôn mãi cát êm
Tình anh như nắng đắm say bay bay ấm ám tình em.

Em yêu...
Có bao giờ... dễ nói lời yêu
Có bao giờ... ngừng thổi gió ơi
Có bao giờ... hát thôi cũng hiểu
Có bao giờ.... có bao giờ...
Em mãi bên anh...!

Em yêu... tình anh như gió ru êm bờ cát
Tình anh tha thiết nỗi nhớ trùng khơi
Tình anh mãi mãi mang ngàn nỗi nhớ yêu em đắm say
Tình anh mãi mãi mang ngàn nỗi nhớ yêu em nồng nàn.

TNP

Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2018

Quê Em - Trần Nguyên Phú

Ba con Mèo Hà Tĩnh
Hát mời các anh về quê...!
Nhạc và lời: Trần Nguyên Phú
https://youtu.be/fZErtgpoq5Q
TNP

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

Chào mừng ngày Âm nhạc Việt Nam 3/9....!

Mời cả nhà nghe lại: một trong những "ca khúc đầu tay" hơn 15 năm trước, của Bác sỹ Trần Nguyên Phú.

CÂY ĐỜI
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/cay-doi-tran-nguyen-phu-cong-hoan.koDI03SOSO.html
Lời thơ: Xuân Diệu- Goethe
Nhạc: Trần Nguyên Phú
Ca sỹ: Công Hoàn

Mọi lý thuyết đều màu xám
Cây đời vĩnh viễn xanh tươi
Vĩnh viễn chim ca, vĩnh viễn nắng cười
Vĩnh viễn anh yêu em như yêu sự thật
Cây đời mãi mãi tươi xanh.

Mãi mãi em ơi cây đời trĩu trái
Gió trong lá mùa thu trở lại
Rì rào đôi ta tình ái muôn đời.
Trong đôi mắt em rực rỡ nắng trời
Ngời qua sợi tóc mây rủ trán
Mãi mãi môi em nhụy đời vô hạn
Cây đời mãi mãi xanh tươi...

Mọi lý thuyết đều màu xám
Cây đời vĩnh viễn xanh tươi
Vĩnh viễn chim ca, vĩnh viễn nắng cười
Vĩnh viễn anh yêu em như yêu sự thật
Cây đời mãi mãi tươi xanh.

Mãi mãi cây ơi cho đời trĩu trái
Em và anh mùa thu ngọt lại
Đắm say lòng ta tình ái muôn đời.
Trong đôi mắt em rực rỡ sắc ngời
Vờn gió nhẹ tóc mây trong nắng
Mãi mãi mắt em sắc trời vô hạn
Cây đời mãi mãi xanh tươi.....
.....
Cây đời vĩnh viễn tươi xanh
Cây đời vĩnh viễn xanh tươi.

TNP